Lịch sử các dòng phái Yoga


Yoga
Hơn 5000 năm lịch sử, được lưu lại trên những lá cọ mong manh dễ dàng bị phá hư hay thất truyền
Cùng với 5 trường phát triết lý nổi tiếng khác
Biến Ấn Độ trở thành một mảnh đất tâm linh khoa học kỳ diệu.

Yoga (sa. yoga)
Du-già (zh. 瑜伽)
Là một họ các phương pháp luyện tâm và luyện thân cổ xưa bắt nguồn từ Ấn Độ.
Người nam luyện Yoga được gọi là (Du-già) Hành giả (sa. yogin), người nữ là Nữ hành giả (sa. yoginī). Có lúc ta cũng thấy cách gọi Du-già sư, Du-già tăng.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, thế giới tâm linh của Ấn Độ được phổ biến chính qua khái niệm Yoga này.

1. Lịch sử của Yoga có thể chia làm 4 thời kì chính:

⬜ Thời kì Yoga tiền-cổ điển với các nền văn minh Indus-Sarasvati ở miền Bắc Ấn Độ, từ “Yoga” đã được đề cập đầu tiên trong thánh thư Rig Veda – thánh thư lâu đời nhất. Yoga đã được thiết kế và phát triển từ từ bởi các linh mục Vệ Đà – những người giảng dạy và tin chủ yếu vào sự hy sinh của bản ngã, tự học hỏi, hành động (Karma yoga) và trí tuệ (Jnana yoga).

⬜ Thời kì Yoga cổ điển, kinh Patanjali lần đầu tiên đưa ra một hệ thống trình bày về Yoga, vì thế thường được coi là cha đẻ của Yoga và các tập kinh Yoga – thứ mà đến tận nay vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các phong cách của Yoga hiện đại.

⬜ Thời kì Yoga hậu cổ điển, các giáo viên Yoga đã tạo ra một hệ thống thực hành được thiết kế để trẻ hóa cơ thể và cuộc sống. Họ không chấp nhận lời dạy của kinh Veda cổ đại và phát triển các Yoga Tantra, với các kỹ thuật khác nhau để thanh lọc cơ thể và tâm trí. Chính trong giai đoạn này, Hatha Yoga đã ra đời.

⬜ Thời kì Yoga hiện đại, khoảng giữa những năm 1800 và 1900, các giáo viên yoga bắt đầu hướng sang phía Tây, để thu hút thêm nhiều người gia nhập. Trong năm 1920, Hatha Yoga được đẩy mạnh ở Ấn Độ do ông T. Krishnamacharya. Shri Krishnamacharya đi qua Ấn Độ và cho trình diễn của các tư thế yoga khác nhau và mở trường dạy Hatha Yoga đầu tiên. B.K.S. Iyengar, T.K.V. Desikachar và Pattabhi Jois là ba sinh viên của Shri Krishnamacharya- những người tiếp bước ông phổ biến mở rộng trường phái Hatha Yoga.

Việc phát triển Yoga ở phía tây vẫn tiếp tục cho đến khi Indra Devi mở studio Yoga của mình tại Hollywood vào năm 1947. Kể từ đó, nhiều giáo viên khác của phương Tây và Ấn Độ đã trở thành những người tiên phong phổ biến rộng rãi Hatha Yoga và thu hút được hàng triệu người theo tập. Bây giờ Hatha Yoga đã có nhiều trường phái và phong cách khác nhau, trong đó nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của việc tập luyện.

thuật ngữ Yoga có nghĩa là đặt mình dưới một cái ách, điều ngự, cột thắt lại, chuẩn bị, chuyên chú. Trong các hệ thống học phái Yoga thì thuật ngữ này chỉ đến hai nhánh tu học luyện thân và luyện tâm, giúp hành giả nâng cao năng lực thân tâm cũng như những hoạt động của chúng trong chính mình, điều hoà chúng để rồi có thể tiến đến cấp bậc toàn hảo tâm linh. Tu luyện Yoga thân thể được gọi là Hatha yoga (Khống chế du-già, zh. 控制瑜伽, sa. haṭhayoga), tu luyện Yoga tâm thức là Raja yoga (Hoàng giả du-già, zh. 皇者瑜伽, sa. rājayoga), nghĩa là "phép Yoga của một ông vua" (rāja).
 Ba-đan-xà-lê (zh. 巴丹闍梨, sa. patañjali, tiểu sử không rõ, có thể sống thế kỉ 2/3 trước CN hoặc thứ 5 sau CN), tác giả của bộ Du-già kinh (zh. 瑜伽經, sa. yogasūtra)
Hệ thống Yoga cổ điển như một phái triết học được Ba-đan-xà-lê khai sáng.

Ba-đan-xà-lê miêu tả tám cấp của Yoga (sa. aṣṭāṅgayoga) với những điểm đặc thù của nó. Hai cấp đầu tương quan đến việc tu trì giới luật, ba cấp kế đến tương quan đến việc tu tập thân thể và ba cấp cuối hướng dẫn trau dồi tâm thức.

Chế giới (zh. 制戒, sa. yama, YS 2,30), được hiểu là sự tự kiểm soát trong mọi hành động, bao gồm bất sát sinh (sa. ahiṃsā), chân thật (sa. satya), không trộm cắp (sa. asteya), Phạm hạnh (sa. brahmacaryā, ở đây là tuyệt dục) và không giữ vật sở hữu (sa. aparigraha)
Nội chế (zh. 內制, sa. niyama), bao hàm sự thanh tịnh (sa. śauca) trong ba cửa ải thân, khẩu và ý, tâm thức hoan hỉ (sa. saṃtoṣa), khổ hạnh (sa. tapas), sự tu học (sa. svādhyāya) thánh điển với khả năng dẫn đến giải thoát và lặp đi lặp lại âm tiết OṂ ॐ, quy y đấng Tự Tại (sa. īśvarapraṇidhāna), hiến dâng tất cả cho đấng tối cao.
Hai cấp Chế giới và Nội chế bên trên giúp hành giả tạo sự hoà hợp ở bản thân và dung hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, của con người và vạn vật xung quanh. Để đạt được sự an nhiên tâm thức lâu dài thì Ba-đan-xà-lê cũng khuyên hành giả trau dồi những đức tính quan trọng khác như Từ, bi, hỉ và xả (tứ vô lượng tâm). Từ là tình thương bao trùm vạn vật, bi là tâm đồng cảm với chúng sinh, hỉ là niềm vui cùng người khác và xả là tâm thức không dao động trước khổ lạc, vinh nhục v.v... (1,33).
Toạ pháp (zh. 坐法, sa. āsana) là phép ngồi vững chắc và dễ chịu (2,46). Tư thế ngồi vững chắc và dễ chịu được đạt qua tâm thư giãn tuyệt đối, qua tâm vô thức về các cặp đối đãi như nóng lạnh, khổ lạc v.v... và qua sự quán chiếu cái tuyệt đối vô biên (2,47).
Điều tức (zh. 調息, sa. prāṇāyāma) là sự điều chế hơi thở ra vào, được định nghĩa là sự tách li hơi thở vào và thở ra (2,49). Việc điều chế hơi thở này chính là nguyên nhân làm cho tâm thức được tuần phục.
Chế cảm (zh. 制感, sa. pratyāhāra) có nghĩa là rút những giác quan ra khỏi những đối tượng của chúng. Sự kiểm soát toàn hảo này chỉ có thể được thực hiện khi tâm thức đã được điều phục (2,54).
Chấp trì (zh. 執持, sa. dhāraṇa) là sự tập trung tâm thức vào một chỗ nhất định, rất cần thiết cho việc điều chế tâm thức, vốn có bản chất tán loạn, hồi hộp không yên. Những điểm tập trung được nhắc đến là xa luân (sa. cakra) ở khu vực tim, chóp mũi, đầu lưỡi v.v... Một đối tượng bên ngoài, ví như một bức tượng của một Thần thể cũng có thể được dùng làm điểm tập trung (3,1).
Tĩnh lự (zh. 靜慮, sa. dhyāna): Dòng tâm thức tương tục được gán vào đối tượng một cách tự nhiên, không bị một hoạt động tâm thức nào khác quấy nhiễu (3,2).
Tam-ma-địa (zh. 三摩地, sa. samādhi) là đỉnh điểm của quá trình thiền định. Nhờ sự trình hiện chân thật của bản chất đối tượng mà hành giả đang quán chiếu, hành giả siêu việt ngay cả sự nhận thức đối tượng (3,3).

Quyền năng siêu nhiên
Trong lúc tu luyện ba cấp 6-8 thì hành giả có thể chứng nghiệm một vài năng lực siêu nhiên (sa. vibhūti), ví như biết được quá khứ vị lai, biết kiếp sống trước của mình, hiểu tiếng nói của chúng sinh (3,16). Tuy nhiên, Ba-đan-xà-lê cũng nói thêm là những năng lực siêu nhiên này có thể là chướng ngại trên con đường tu tập (3,36). Nếu hành giả tiến bước mà không để những năng lực này chi phối thì sẽ đạt đỉnh điểm của quá trình tu học, là Tam-ma-địa.

Hai dạng Tam-ma-địa
Có hai dạng Tam-ma-địa (1,44):

Trong Tam-ma-địa có tư duy chủ động (Hữu tầm/Hữu tứ tam-ma-địa, sa. savitarkasamādhi, savicārasamādhi) thì tâm thức của hành giả vẫn còn hoạt động mặc dù ông ta đã bị thu hút hoàn toàn bởi sự chuyên chú vào đối tượng đã chọn (1,42,45).
Trong Tam-ma-địa không còn tư duy (sa. nirvitarkasamādhi, nirvicārasamādhi) thì sự nhận thức đối tượng tham quán tự huỷ hoàn toàn và tâm thức của hành giả cũng ngừng hoạt động. Tâm thức tan biến (1,43,47-51). Chỉ còn Phú-lâu-sa (sa. puruṣa) nội tại với kinh nghiệm độc tồn (sa. kaivalya) tuyệt đối.

0 Lưu tâm:

Đăng nhận xét